Nội dung chính
Ở đây, nói về tết cổ truyền người Việt là muốn giới thiệu về tết Nguyên Đán. Tết Nguyên đán là tết mở đầu năm mới. Dân ta gọi là TẾT CẢ. Chỉ có gọi như thế mới nói hết tầm vóc và chiều sâu tâm hồn của nếp nghĩ, nếp sống truyền thống. Đây là lúc mở đầu vòng quay mới của vũ trụ sau bốn mùa chu chuyển.
Tết Cả là gì?
Thực ra, ngày xưa là qua một vòng trồng cây, vì một năm có một vụ sản xuất. Sống bằng nghề nông, người Việt cổ gắn bó với mùa màng, hòa nhập với môi trường (Trời – Đất) thành một khối thống nhất, hòa hợp nhau (Trời – Đất – Người). Vì vậy, chỉ đến TếT CẢ mới thấy toàn thể cộng đồng cầu chúc nhau toàn diện. Với nông dân: cầu phong đăng, hòa cốc; với thợ (thủ công): mở mang trăm nghề; với nho sinh: đỗ đạt, hiển vinh; với thương nhân: một vốn bốn lời… Cũng đà ấy, với người già: bách niên giai lão; với trẻ nhỏ; hay ăn chóng lớn; với tuổi xuân: hạnh phúc lứa đôi; với vợ chồng: gia đình đầm ấm; với người hiếm: có con; với người nghèo: đủ ăn, đủ mặc; với người yếu: khỏe mạnh; với mọi người, lời chung nhất: sức khỏe và bình yên. Cũng vào dịp này, đạo lý làm người được nhắc lại để in sâu trong mối quan hệ xã hội nhiều chiều, trọn vẹn; cháu con và ông bà, cha mẹ trò và thầy; bệnh nhân và thầy thuốc; vợ chồng, anh em; họ hàng thân quyển, đồng nghiệp, bạn bè, trẻ, già… thật là một lối sống tràn đầy nhân ái, chu đáo, một lối ứng xử văn minh.
Có thể bạn quan tâm: Vé máy bay tết 2021 ?? https://dichvuhangkhong.com.vn/ve-may-bay-tet.html
Lời chúc biểu hiện niềm hy vọng sâu xa, rằng mọi điều tốt lành sẽ đến với tất cả, không loại trừ ai.
Muốn thế phải có những động tác khởi động biểu trưng của toàn thể. Vì đây là sự vận hành của vũ trụ, của xã hội. Mà lại phải khởi động đúng lúc, TẾT CẢ đến vào khoảnh khắc 2 năm cũ – mới gặp nhau và ly biệt. GIAO THỪA chính là điểm hội tụ và phân ly ấy. Đúng nửa đêm, phút cuối cùng của năm cũ, phút mở đầu của năm mới, mọi sự như có đột biến, đổi thay lạ kỳ, hoặc được quan niệm như vậy. Bầu trời đang triền miên trong đến tối mịt mùng và câm lặng, như nín thở, chợt một tiếng chuông chùa ngân nga…thể là những tia sáng lóe lên, pháo nổ râm ran. ở mọi nhà, đồng thời trên mọi miền đất nước. Đó là thời điểm thiêng liêng nhất của một năm, đúng lúc chuyển đổi từ mùa đông băng giá khô cằn – biểu tượng của hủy diệt, chết chóc, sang mùa xuân ấm áp, nảy mầm – biểu tượng của tiến triển, sinh sôi. Đúng lúc giao thừa ấy, người xưa có nhiều hành động đặc thù để như biến lời chúc thành hiện thực, chứ không chỉ là hy Vọng. Chẳng hạn như đoàn trẻ con nghèo hát “súc sắc súc sẻ” chúc mừng mọi gia đình; tục “gọi gạo”; lệ “giữ lửa qua đêm giao thừa”, tức giữ sự sống từ năm cũ sang năm mới; lẽ trảm tự (chém chữ) để truyền nghề võ cho trai đinh của các dòng họ trong làng…
Với tiến trình TẾT CẢ như sẽ thấy từ mồng 1 tới mồng 3 (hoá vàng), hoặc tới mồng 7 (lễ khai hạ, hết Tết), ai cũng hiểu ngay rằng Tết Cả chính là lễ hội truyền thống lớn nhất, tập trung nhất, tiêu biểu nhất của nhân dân ta nhiều đời đã qua. Và cũng chỉnh Tết Cả – Lễ hội toàn dân này đã mở màn cho hệ thống lễ hội (Hội làng) mùa xuân rộn ràng tới mùa thu trên mọi miền đất nước.
Ở đó – trong dịp TẾT CẢ, con người sống trong lễ thức tôn nghiệm cùng đạo đức cộng đồng, rồi ngay sau đó, mọi người chan hòa vào các cuộc vui, trò chơi, hội thi tài… vừa để giải tỏa và quên đi mọi nỗi nhọc nhằn của cuộc sống năm qua, vừa để cầu mong tổ tiên và các vị thần linh âm phù, để con cháu đi vào năm mới với ý nghĩ chân thành rằng năm nay phải tốt đẹp, may mắn, hạnh phúc hơn nhiều lần năm ngoái. Lễ hay hội trong Tết Cả bao hàm nhiều mỹ tục. Nội dung của mỹ tục thường chỉ giản dị là bộc lộ lòng nhân ái với đồng loại cùng đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” được khơi dậy cùng tinh thần cộng đồng sâu sắc, đã là mối dây liên kết bền vững giữa mỗi gia đình và kỷ cương xã hội.
Từng ngành, nghề có những nghi thức đầu năm gì?
TẾT là đổi mới, nên trong những ngày này người ta đã chọn giờ, chọn ngày để tạo một động tác – một hành động biểu trưng – mở đầu cho mọi việc của năm mới tăng tiến, khá giả, tốt đẹp hơn năm vừa đi qua, bằng hành vi riêng lẻ, hoặc bằng nghi thức tập thể, để từng ngành, từng nghề, từng giới cùng mở đầu hành động chung sao cho chu đáo và đồng bộ.
Lễ Động thổ hay KHAI CANH cho nhà nông (mồng 3-4 hoặc 6 tháng Giêng). Nho sĩ (văn nghệ sĩ, trí thức) tự làm LỄ KHAI BÚT (mồng 1- 3 tết) viết câu văn, làm bài thơ đầu tiên. Thợ săn hay người kiểm lâm làm LỄ KHAI SƠN (còn gọi lễ mở cửa rừng). LỄ CẦU NGƯ của dân chài miền biển (mồng 1 tới mồng 5), đi kiếm mẻ cá đầu tiên lấy may và mở đầu cho một năm chài lưới thịnh vượng. Quan lại hoặc xã trưởng bắt đầu mở ấn (con dân) xác nhận giấy tờ công văn đầu năm, gọi là “LỄ KHAI ẤN”.
Nghề thủ công có “LỄ KHAI NGHIỆP” bắt đầu sản xuất, hoặc nghề đúc có “LỄ KHAI LÒ” (nhóm lửa đúc đồng gang…). Ở Huế, dân chèo thuyền đọc sông Hương, còn ngược dòng nước lên thượng nguồn Hương Điền, làm “LỄ KHAI NGUỒN” với ý cầu mong thủy thần (ở đầu nguồn nước) không gây tai nạn giao thông đường thủy. Mồng 7, tất cả hoặc hầu như tất cả làm “LỄ KHAI HẠ” là nghi lễ kết thúc tết, mọi người trở lại công việc binh thường của bản thân. Người ta gọi tất cả là “LỄ KHAI XUÂN“, lễ ở đầu mùa xuân hoạt động của từng ngành nghề. cẩu nay mắn cho cả năm.
Tuy nhiên, là một sản phân lịch sử, dù nhiều mỹ tục, Tết Cả cũng mang trong nó những nhược điểm của thời đại cũ, khó hòa nhập với hôm nay. Trước hết đó là sự tổn phí thời gian (trước và sau tết) và con người đổ của cùng công sức vào dịp này quả nhiều, quả lớn.
Cộng đồng người Việt mới đang hướng tới một xã hội công nghiệp, văn minh, Việc hưởng thụ trong dịp tết cần tính toán sao cho giản dị hơn, và sau tết con người phải dồn sức lao động với tốc độ nhanh hơn cũng với ý nghĩa truyền thông là mở màn cho một phong cách làm ăn của năm mới. Nghĩa là cần phải tổ chức lại sao cho TẾT CẢ vẫn mang đầy đủ ý nghĩa tinh thần, đủ nghi thức cần thiết, song không câu nệ về hình thức và vật chất. Với phương hướng như vậy, hy vọng rằng TÉT CÁ sẽ ngày càng một văn minh, hợp thời đại hơn.