Khi còn là một cậu bé lớn lên ở khu phố cổ Hà Nội, vào khoảng hai tuần trước Tết (Tết Nguyên đán), những cụ già viết thư pháp thường ngồi trên những chiếc chiếu trải ở góc phố hoặc trong chợ. Ở đó, họ sẽ viết lên những tờ giấy đỏ thẫm những ký tự đẹp đẽ bằng chữ Hán cổ điển (Hán) hoặc chữ Việt (Nôm). Nhúng những chiếc bút lông lớn của mình lên những phiến giấy đầy mực đen, họ sẽ viết những chữ tượng trưng cho “Hạnh phúc”, “Trường thọ” hoặc “Tài năng” trên những tờ giấy đỏ hình vuông. Hoặc họ sẽ viết những lời chúc thịnh vượng trên hai tờ giấy giấy đỏ thẫm hình chữ nhật dài.
Một câu nói dân gian xưa tóm tắt những đặc điểm cơ bản của Tết:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ,
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
Trong ngày Tết cổ truyền, mỗi gia đình sẽ có một câu đối viết trên giấy đỏ thắm, vì màu đỏ là màu của hạnh phúc và may mắn. Họ thường treo những câu đối này ở mỗi bên cửa chính hoặc hai bên bàn thờ tổ tiên. Câu đối bày tỏ mong muốn cuộc sống tốt đẹp hơn trong năm mới.
Một ví dụ là tác phẩm châm biếm này của học giả Nguyễn Công Trứ (1778–1858), trong đó “Ba mươi” là Ngày cuối cùng của Năm cũ, và “Đầu tiên” là Ngày đầu tiên của Năm mới:
Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng Bần ra cửa
Sáng mùng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.
Ngày xưa, nếu sân đình đủ chỗ, mọi người dựng một cây tre Tết cao năm, sáu thước. Trên cùng, họ treo một vòng tròn bằng tre, từ đó họ treo những chiếc chiêng nhỏ bằng đất sét, một con cá chép làm bằng giấy và những thỏi vàng cũng làm từ giấy. Trên mặt đất, người ta dùng vôi vẽ cung tên săn bắn để xua đuổi tà ma. Phong tục này vẫn có thể được tìm thấy trong vùng quê hiện nay.
Từ xưa đến nay, các gia đình vẫn giữ phong tục viếng thăm đầu xuân. Vào Mùng Một Tết (Mùng Một Tết Nguyên Đán), gia đình chờ đón vị khách đầu tiên của năm với hy vọng rằng người ấy sẽ mang lại một tương lai thuận lợi. Nhiều gia đình sắp xếp trước cho vị khách này là một người may mắn, vinh hoa phú quý, sống lâu, đông con cháu. Trong khi đó, các thành viên trong gia đình đang chờ đón vị khách đầu tiên của Năm mới sẽ trao nhau những lời chúc tốt đẹp nhất.
Trong suốt khoảng thời gian 3 ngày Tết, chủ nhà và khách trao cho những lời chúc tốt đẹp cho Năm Mới. Đối với những cặp vợ chồng mới cưới, khách tới chúc Tết có thể nói “Chúc 2 vợ chồng đầu năm con trai, cuối năm con gái”. Khách tới nhà chỉ ở lại tầm vài phút, chúc nhau những lời chúc đầu năm tới chủ nhà, uống một tách trà thơm hương sen, nếm một ít kẹo hoặc mứt trái cây hoặc có thể dùng một chút bánh chưng. Phụ nữ thì đến đền, chùa để xin quẻ (lá số) đầu năm. Quỳ trước bàn thờ, mỗi người phụ nữ sẽ lắc bột chiêc hộp với nhiều thẻ tre bên trong cho tới khi một chiếc rớt ra khỏi hộp, trên mỗi thẻ tre được khắc một con số khác nhau.
Hoàng Đạo Thúy (1900–1994), cha đẻ của Phong trào Hướng đạo ở Việt Nam và là đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam, qua đời ở tuổi chín mươi bảy. Trong các đoạn trích dưới đây, ông nhắc lại Tết ở Hà Nội vào đầu những năm 1900, khi chính quyền thuộc địa mới thành lập muốn làm mờ đi các truyền thống và lễ hội. Trong tiếng Việt, “tết” có nghĩa là “lễ hội” và được áp dụng cho nhiều dịp. Hoàng Đạo Thúy sử dụng tiêu đề “Tết Lớn” trong đoạn trích đã được chỉnh sửa này để mô tả lễ hội lớn, là Tết Nguyên đán và ngày lễ lớn của Việt Nam:
Mọi người đều mong đợi Tết. Những người nông dân đã thu hoạch xong và thưởng thức những ngày mưa phùn của mùa xuân rơi xuống. Trẻ em được nghỉ, mặc quần áo mới và ăn bánh chưng bằng gạo nếp, đậu xanh và thịt lợn. Họ đốt pháo; những người lớn tuổi sẽ “lì xì”. Tuy nhiên, hầu hết người lớn đều lo lắng, vì các gia đình phải trả nợ trước khi năm cũ kết thúc. Nếu không,chủ nợ sẽ xông vào nhà, chiếm lấy chiếc lư thiêng từ bàn thờ tổ tiên của gia đình.
Nửa đêm giao thừa, cha thắp hương, con trai đốt lửa đón linh hồn tổ tiên trở về; trong sân, Mẹ bày các món ăn ngày Tết tượng chưng cho đất Đất và Trời. Ngày mồng Một, gia đình đến thăm ông nội, ông sẽ trải giấy đỏ và viết các chữ tượng hình mang những ý nghĩa: Hiếu, Lễ, Trung, Tín. Ông dặn dò mọi người “Hãy tỏ lòng hiếu thảo với cha mẹ, hãy biết nghe lời”.